93 Lê Quốc Hưng, P.12, Q.4, TP.HCM
19001868 - 0909886688

Tour hành hương đất Phật Ấn Độ - Tứ Động Tâm - Lumbini - Bodh Gaya - Varanasi - Kushinagar 7N6Đ Bay thẳng New Delhi

 Tour hành hương đất Phật Ấn Độ - Tứ Động Tâm - Lumbini - Bodh Gaya - Varanasi - Kushinagar 7N6Đ Bay thẳng New Delhi - Tứ Động Tâm là NƠI PHẬT SINH RA ( Lumbini - Lâm Tỳ Ni) - NƠI PHẬT GIÁC NGỘ ( Bodh Gaya - Bồ Đề Đạo Tràng) - NƠI PHẬT TRUYỀN ĐẠO ( Varanasi/ Sarnath - Vườn Lộc Uyển ) - NƠI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN (Kushinagar - Câu Thi Na). TOUR CAO CẤP KHÁCH SẠN 4 SAO & BAY THẲNG TOÀN CHẶN từ HCM & HÀ NỘI. - Tour trọn gói vé máy bay khứ hồi, dịch vụ từ A->Z. Tour khởi hành hàng ngày từ HCM - Đà Nẵng - Hà Nội. Hotline: 19001868 | 0909886688. Web/Facebook: Viettourist.com

  • Thời gian: 7 ngày 6 đêm
  • Phương tiện: BAY THẲNG TOÀN CHẶNG
  • Nơi khởi hành: Hồ Chí Minh
Chỉ còn 19tr888/khách. Áp dụng khách thứ 2 đi cùng. Khởi hành tháng 5,6,7,8
29,888,000 đ 19,888,000 đ
Đặt tour
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐẠO PHẬT GIÁO

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người từng sống trên trái đất và sáng lập ra Phật Giáo. Tên gọi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Thích Ca, Phật Tổ Như Lai hay nhiều tên gọi khác như Phật Tổ, Phật Như Lai, Tất Đạt Đa Cồ Đàm, Đức Thế Tôn... là chung một người.

Trưởng lão tỳ-kheo Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) đã kết luận:
Ngài cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Đạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Đại Giác, có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh. Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Thế Tôn, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Thế Tôn và noi theo gương sáng của Thế Tôn mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Đạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.

============================
LUMBINI Phật Tổ Như Lai sinh ra tại Lumbini, Nepal vào ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 TCN, Cha ông là Vua Suddhodana của tiểu quốc Thích-ca (Shakya) nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay. Mẹ ông là hoàng hậu Maya ( mất sau khi sinh Ngài được 7 ngày). Tương truyền khi mới sinh ra Thái Tử đã biết đi. Nhận thấy những điều kỳ lạ này, đức vua đã tìm những đạo sư giỏi nhất trong cả nước để cầu phúc và xem tướng cho Ngài. Một hôm A Tư Đà - một vị đạo sư đến từ vùng Hy Mã Lạp Sơn sau khi gặp thái tử đạo sư thưa với Vua rằng: “Thái tử có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác.

Năm 13 tuổi thái tử đã tinh thông học vấn, năm 16 tuổi nên duyên cùng công chúa Yasodhara. Cuộc sống bình yên cứ thế trôi qua, cho đến một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, Ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là: 1 người già yếu, 1 người bệnh tật, 1 xác chết, và 1 vị tu sĩ. Ngài nhận ra con người ta được sinh ra, lớn lên rồi cũng sẽ già đi và chết, dù là ai thì cũng sẽ không thoát khỏi cảnh “ sinh lão bệnh tử”. Ngài trân quý hình ảnh sự ra đi thanh thản của các vị tu sĩ nên đã quyết tâm bước vào con đường tu hành. Ngài bỏ lại sau cuộc sống vinh hoa , vợ, con ... đi theo con đường tu hành và Lumbini là nơi Đức Phật đã sống đến năm 29 tuổi.
============================
BODH GAYA Trong đêm tối, rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 TCN, lịch sử gọi đây là cuộc cuộc ra đi vĩ đại - Xuất gia. Khi xuất gia Ngài bắt đầu cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau, quyết tâm tìm cách diệt khổ theo cách tu của truyền thống Ấn Độ lúc bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Ngài nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, nên Ngài quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em ngài Kiều Trần Như đồng hành cùng Ngài. Sau 5 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, nên Ngài bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi.

Ngài đi đến Giác Thành, đến bờ sông Nairanjana (Ni-liên-thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé thấy Ngài đang ngồi thiền định liền tự tay vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên, Ngài ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh. Đến ngày thứ 49, Ngài ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách cây Bồ-đề khoảng 150 m về hướng đông) thì có hai chị em nàng Tu-Xà-Đề (Sujata) thấy Ngài đang tĩnh tọa, hào quang của Ngài sáng tỏa làm cho Sujata tưởng rằng vị Thần cây đang hiện thân, hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Ngài thấy cơ thể khỏe mạnh lạ thường & xuống sông Ni-liên-thiền tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.

Ngài quyết định ở lại Bồ-đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) và phát nguyện rằng: sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc đắc đạo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Ngài tiếp tục ngồi thiền tư thế ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Ni-liên-thiền. Đêm hôm đó, Ngài bắt đầu thực hành các pháp thiền định.

Canh một đêm đó, Ngài chứng ngộ Túc Mạng Minh, biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)

Đến canh ba, Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn Minh, biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...). Ngài biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó nhìn thấu được luật Nhân quả và Luân hồi; tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Đến canh năm, Ngài chứng ngộ Lậu Tận Minh: Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên Ngài nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ngài đã tìm ra Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).

Theo lịch sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN. Ở tuổi 35, Ngài đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ thời điểm đó, Ngài biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa.

Ngài lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra "con đường giác ngộ", vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Ngài nghĩ rằng: "Giáo pháp mà Ta đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu".

Nếu Ngài truyền dạy giáo pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được giáo pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị". Nên Ngài tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ đề một thời gian là 7 tuần lễ. Với lòng thương yêu chúng sinh, Ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni ( Shakyamuni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".
====================================
SARNATH VƯỜN LỘC UYỂN 
Sau khi giác ngộ, Ngài quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès (Ba-la-nại) và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Ngài thành đạo.

Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, Đức Phật đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Benares hay còn gọi là Varanasi, ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân".

Trong 45 năm tiếp đó, Đức Phật đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Ông hay lưu trú tại Vương-xá( sāvatthī) và Phệ-xá-li (vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định. Thông qua những lời dạy của mình về chân lý, Ngài đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ, cận sự nam), ưu-bà-di (nữ cư sĩ, cận sự nữ).

Trong hàng đệ tử tại gia của Ngài có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã chở nhiều xe vàng và lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc.

Thập đại đệ tử của Đức Phật, trong đó có :
A-nan-đà (thị giả của Phật), Xá-lợi-phất (trí huệ đệ nhất), Mục-kiền-liên (thần thông đệ nhất), Ma-ha-ca-diếp (hạnh đầu đà đệ nhất), A-na-luật (thiên nhãn đệ nhất) và Phú-lâu-na. Trong đó, A-nan-đà trở thành thị giả thân cận của Đức Phật.

Tôn giả A-nan-đà nổi tiếng với trí nhớ phi thường, đã ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Chính tôn giả là người đã đọc tụng lại tạng Kinh trong lần Kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất để các chư tăng ghi nhớ, do đó kinh Phật được bảo tồn tới ngày nay chính là bắt nguồn từ công lao của tôn giả (các đoạn kinh Phật được lưu truyền tới nay thường bắt đầu bằng cụm từ "Tôi nghe như vậy" hay âm Hán việt là "Như thị ngã văn", "tôi" ở đây chính là tôn giả A-nan-đà). Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật

Cũng trong thời gian này, đoàn Tỳ-kheo-ni (các vị nữ tu) được thành lập do kế mẫu của Ngài là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng. Ban đầu, Phật Thích Ca không đồng ý nhận người nữ vào tăng đoàn, không phải vì ghét phụ nữ hoặc cho rằng nữ giới không thể tu đắc đạo, mà vì ông biết rằng điều này dễ làm phát sinh các vi phạm về sắc giới trong tăng đoàn. Phật tiên đoán rằng sự có mặt của nữ giới sẽ làm Tăng-già khó tu hành và dự đoán là thời mạt pháp vì lý do đó mà sẽ tới sớm hơn. Nếu tiếp nhận nữ giới, thời kỳ tượng pháp (thời kỳ giáo pháp của Phật được chư tăng duy trì vững vàng, chưa bị biến hoại) thay vì kéo dài 1000 năm, sẽ chỉ còn 500 năm mà thôi. Mặc dù vậy, nhờ sự cầu xin của A-nan-đà (Ananda) mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn, nhưng ông cũng chế định ra 8 giới luật nghiêm khắc với các Tỉ-khâu-ni để ngăn chặn việc phạm sắc giới trong tăng đoàn.

Cuộc đời Đức Phật cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó có Đề-bà-đạt-đa, là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già nên rắp tâm tìm cách giết hại Đức Phật nhiều lần nhưng không thành. Cho đến cuối đời, Đề-bà-đạt-đa vì phạm 2 trong 5 đại tôi là 'Làm thân Phật chảy máu' và 'Phá hòa hợp Tăng' cho nên Địa Cầu không thể dung chứa ông, mặt đất đã nứt ra và hút ông xuống địa ngục.

Tham quan #Sarnath, #Varanasi, Ấn Độ - nơi đầu tiên Đức Phật giảng pháp : Còn được biết đến với cái tên vườn Lộc Uyển, Sarnath được xem là thánh địa của Phật giáo. Nơi đầu tiên Phật Thích Ca đã thuyết giảng về quy luật tự nhiên của vạn vật cho năm vị tu sĩ khổ hạnh trong lần thuyết pháp đầu tiên trong vườn Sarnath. Ở đây, Phật giáo bắt đầu được truyền bá rộng rãi. Đây cũng là trung tâm lớn của các hoạt động Phật giáo trong suốt hơn 1.500 năm sau ngày Phật nhập diệt và là nơi Đức Phật trải qua mùa an cư kiết hạ đầu tiên.

Đến Sarnath tham quan sông Hằng, được xem là dòng sữa mẹ linh thiêng, đi dọc bờ sông Hằng bằng thuyền và ngắm cảnh mặt trời mọc, xem bãi hỏa thiêu và nghi thức tắm gội. Đây là một trong những điểm hành hương không thể thiếu khi đến Varanasi.
============================
KUSINAGARA NƠI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Trong kinh điển Pali, Phật Thích Ca tại thế tám mươi (80) năm. Theo kinh Đại bát-niết-bàn, vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na (Kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên, địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Uttar Pradesh - Ấn Độ ngày nay.

Vào một ngày trước, sức khoẻ của Đức Phật đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà người thợ rèn Thuần-Đà, một số kinh sách ghi rằng do nguyên liệu nấu ăn có lẫn nấm độc. Tuy nhiên sau đó Phật đã nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách Thuần-đà bởi ông ta đã có thiện ý tối thượng, còn việc Phật trở bệnh nặng là quả báo đến lúc phải trả, điều này đã được Phật dự đoán từ 3 tháng trước rồi.

Trước khi qua đời, Phật tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, các vị đã im lặng vì thương Đức Phật đang rất yếu. Lời dạy cuối cùng của Phật : "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học !"

Theo các Phật tử, Đức Phật đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Mặc dù cuộc đời của Đức Phật có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận Ngài là một nhân vật lịch sử có thật và là người đã thành lập ra Phật giáo.

Kushinagar, ngôi làng của Ấn Độ. Đây là nơi Đức Phật xưa kia nhập niết bàn. Trên đường đi tham quan những địa điểm như đền Mahaparinirvana, nơi đặt bức tượng Đức Phật dài 6 mét nằm ở tư thế nhập niết bàn và tháp Ramabhar, nơi làm lễ hỏa táng Đức Phật. Đây cũng chính là nơi cao tăng Trần Huyền Trang viếng thăm.

============================
Tour ẤN ĐỘ tham quan bốn thánh tích linh thiêng về đất Phật mà mọi du khách đều ao ước được chiêm bái một lần trong đời. Bốn thánh tích này bao gồm #Lumbini (Lâm Tì Ni), #Bodh_Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), #Sarnath (vườn Lộc Uyển) và #Kushinagar (Câu Thi Na) với những sắc màu huyền bí trải dài qua 02 Quốc gia Ấn Độ & Nepal.
================
Tour phật giáo tham quan bốn thánh tích linh thiêng về đất Phật khởi hành định kỳ hàng tuần, bay thẳng từ HCM & HÀ NỘI.
LIÊN HỆ : 19001868 - 0909886688
HOTLINE : 0908886688

NGÀY 1 TP. HCM – THỦ ĐÔ DELHI - PATNA - RAJGIR ( KINH THÀNH VƯƠNG XÁ) - BODHGAYA BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG - NƠI ĐỨC PHẬT THÀNH ĐẠO SAU 49 NGÀY THIỀN ĐỊNH DƯỚI CÂY BỒ ĐỀ (Ăn 3 bữa)

Hướng dẫn viên Viettourist đón đoàn taị sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất làm thủ tục đáp chuyến bay đi :

HCM - DELHI LÚC 19H25 - 22H55 (CÓ MẶT SÂN BAY TRƯỚC 3 TIẾNG LÀM THỦ TỤC 16H25)

Quý khách làm thủ tục nhập cảnh Ấn Độ: Chuyến bay sớm 5-7h00 sáng, đoàn ăn nhẹ nghỉ ngơi làm thủ tục nối chuyến đáp chuyến bay đi PATNA (Đoàn nghỉ ngơi tại sân bay).

 

Đến PATNA đoàn ăn sáng & khởi hành tham quan TRƯỜNG ĐẠI HỌC NALANDA: TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO  lớn nhất thế giới, được xây dựng vào thế kỷ thứ 5, là nơi đã tàng trữ nhiều bộ Kinh,  Luật, Luận quan trọng, nơi đã đào tạo nhiều bậc Thánh Tăng như:  Ngài Long Thọ, ngài Liên Hoa Sanh,  ngài Mã Minh, ngài Huyền Trang…. Nalanda quê hương của ĐẠI ĐỨC XÁ - LỢI - PHẤT VÀ MỤC - KIỀN - LIÊN và là nơi có một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, từ thế kỷ thứ 5 và phát triển  rực rỡ từ triều vua Śakrāditya cho đến cuối thế kỷ 12 (1197) được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2016.

Đoàn ăn trưa tại nhà hàng & viếng thăm LINH THỨU SƠN (GRIDHKUTA PEAK). Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá. Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong truyền thuyết Phật giáo như:  kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã...

Trước khi lên đến đỉnh NÚI LINH THỨU du khách sẽ được đi qua những địa điểm được đánh đấu là vị trí quan trọng như:

THẠCH THẤT CỦA NGÀI A NAN vị thị giả suốt đời hầu cận trung thành bên đức Thế Tôn. Phía trước thạch thất này, có tảng đá lớn và nhiều mãnh vỡ được đánh dấu đó chính là tảng đá mà xưa kia Đề Bà Đạt Đa ( Devadatta), người anh em chú bác của Phật, lăn xuống để hại Phật, lúc Ngài đi qua lối hẹp này. Nhờ oai thần của bậc đại giác, Đề Bà Đạt Đa đã không thực hiện thành công mưu đồ bất chính của mình.

THẠCH THẤT CỦA NGÀI XÁ LỢI PHẤT(Sariputa) vị tôn giả trí tuệ bậc nhất trong hàng môn đệ của đức Phật; ngoài ra còn có thạch thất của Ngài Mục Kiền Liên.

Trên cùng là hương thất của Phật, gần mõm đá được cho là giống cái đầu con chim Kên Kên, nơi đức Phật thường ngự khi Ngài dừng chân tại NÚI LINH THỨU; Hai chữ “ Hương thất” là từ xưng tán công đức, giới hạnh của Phật toả ngát như hương thơm bay khắp bốn phương.  ĐẾN RAJGIR - THÀNH VƯƠNG XÁ là kinh đô của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), một kinh thành cổ xưa nhất Ấn Độ, rất trù phú, nguy nga nhưng lại hiểm trở vì núi non bao quanh do vua Tần Bà Sa La (Bimbīsara) trị vì vào thời đức Phật còn tại thế.

Sau khi tham quan xong đoàn sẽ xuống núi, khởi hành về BODHGAYA BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi.

Trên đường đi đoàn ngắm DÒNG SÔNG SÔNG NI LIÊN THIỀN: tại nơi này Ngài nhận bát cháo sữa do nàng Sujata cúng dường và nhận thêm bó cỏ cát tường làm gối ngồi thiền từ một nông dân trong vùng, trước khi Ngài đi về cội Bồ Đề bắt đầu thiền định & nghe câu chuyện về nàng Sujata – người đã cúng dường bát cháo sữa cho Đức Phật khi ngài bị kiệt sức bên dòng NI LIÊN THIỀN.

Đoàn ăn tối tại khách sạn và đi chiêm bái THÁNH TÍCH & TỊNH TÂM VÀ THIỀN ĐỊNH DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ. Đền Giác Ngộ Tự – Đền thờ Phật giáo ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đạt được quả vị Giác Ngộ chánh đẳng chánh giác, đảnh lễ Tháp Đại Giác Tự. Cội Bồ Đề linh thiêng – Nơi sau 49 ngày thiền định đắc quả vị Phật với hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đoàn nghỉ đêm tại BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG - BODHGAYA

Ngày 2 BODH GAYA BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG - VARANASI ( BA NA LẠI) - SARNATH ( VƯỜN LỘC UYỂN ) - NƠI ĐẦU TIÊN ĐỨC PHẬT GIẢNG PHÁP (Ăn 3 bữa)

Sáng sớm đoàn tiếp tục đi chiêm bái và tịnh tâm và thiền định dưới CỘI BỒ ĐỀ TẠI ĐỀN GIÁC NGỘ & CỘI BỒ ĐỀ LINH THIÊNG.

Bồ Đề Đạo Tràng được xem là khu thánh địa linh thiêng bậc nhất trong các Phật tích tại Ấn Độ. Bồ Đề Đạo Tràng nằm ở phía Nam thành Gaya, nước Ma Kiệt Đà ( Magadha) thời Ấn Độ cổ đại, ngày nay là vùng ngoại ô BodhGaya, phía Nam bang Bihar. Sáng sớm quý khách tham quan các điểm như sau:

THÁP ĐẠI GIÁC ( Mahabodhi): Ngôi đại tháp có kiến trúc tương tự hình kim tự tháp, vuông bốn cạnh và nhọn dần lên đỉnh, mỗi cạnh tại chân tháp có độ dài khoảng 15 m, chiều cao là 52m. Bốn gốc đại tháp có bốn ngọn tháp nhỏ, kiểu dáng thu gọn từ đại tháp. Xung quanh thân tháp có nhiều hoa văn và mỗi hốc tường từ chân tháp lên đến đỉnh đều có tôn trí tượng đức Bổn Sư và chư vị Bồ Tát, đặc biệt là hình ảnh Bồ Tát Quan Thế Âm theo truyền thống Kim Cang Thừa Tây Tạng. Bên trong tháp có tượng Phật Thích Ca bằng ngọc, mạ vàng, trong tư thế xúc địa ấn, hướng mặt về phía đông. Tượng được tạc vào năm 380 sau Tây lịch.

LINH THỌ BỒ ĐỀ: đức Phật thành đạo dưới cội cây Pippala, loại cây linh thiêng theo tín ngưỡng truyền thống Ấn Độ. Vì đức Phật giác ngộ dưới cội cây Pippala nên chúng ta lấy sự kiện đó đặt tên cho loại cây này là Bồ Đề, nghĩa là cây giác ngộ. Chính dưới gốc cây này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện

“Nếu không đạt thành chánh giác, dù cho thịt nát xương tan, ta quyết không đứng dậy rời khỏi chổ này”

Giá trị nhất trong khu Phật tích này là ngôi Đại Giác và cội cây Bồ Đề linh thiêng, nơi đức Phật thành đạo vẫn còn tồn tại mãi theo dòng chảy thời gian. Ngày 27/06/2003 UNESCO công nhận Bồ Đề Đạo Tràng là di tích văn hoá thế giới.

BẢO TOÀ KIM CANG (Vajrasana): là vị trí đức Phật ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề, khoảng cách nằm giữa tháp Đại Giác và cội Bồ Đề. Theo lịch sử Phật giáo thì BẢO TOÀ KIM CANG  được vua A Dục xây vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Ngày nay, Bảo Toà Kim Cang được bảo vệ trong một hàng rào xi măng có lối kiến trúc cổ. Quý khách vào đảnh lễ bên trong tháp Đại Giác, ngồi thiền dưới cội Bồ Đề.

Đến giờ đoàn về khách sạn ăn sáng & đi tham quan một vài ngôi chùa tại khu vực Bồ Đề Đạo Tràng như: Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự,Chùa Sri-Lanka,Chùa Tây Tạng,Chùa Trung Quốc,Bhutanese Monestry, Chùa Nhật Bản, Chùa Thái Lan…

NGÀY 3 BODH GAYA BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG - VARANASI ( BA NA LẠI) - SARNATH ( VƯỜN LỘC UYỂN ) - NƠI ĐẦU TIÊN ĐỨC PHẬT GIẢNG PHÁP ( Ăn 3 bữa )

Sáng sớm đoàn tiếp tục đi chiêm bái và tịnh tâm và thiền định dưới cội Bồ Đề tại Đền Giác Ngộ & Cội Bồ Đề linh thiêng .

Đến giờ đoàn về khách sạn ăn sáng & khởi hành đi Varanasi ( Ba La Nại ) Thánh tích Sarnath (Vườn Lộc Uyển), nơi Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên. Thành phố Varanasi (tên cổ là Benares, Banares, Kashi) nằm bên bờ con sông linh thiêng nhất của người Ấn – sông Hằng. Đô thị vĩ đại này được mệnh danh với nhiều tên gọi như “Thành phố học thuật”, “Đô thị của các triết gia”, “Thành phố ánh sáng”, là thánh địa linh thiêng đối với cả các tín đồ Hindu giáo và Phật giáo, nơi còn lưu giữ nguyên vẹn những nghi lễ, tục lệ và nét văn hóa thiêng liêng của người Ấn, nơi cổ xưa hơn cả lịch sử, truyền thống, và huyền thoại.

Đoàn ăn trưa tại nhà hàng và trả phòng khởi hành đi VARANASI (BA LA NẠI) . Đô thị vĩ đại này được mệnh danh với nhiều tên gọi như  “Thành phố học thuật”, “Đô thị của các triết gia”, “Thành phố ánh sáng”, là thánh địa linh thiêng đối với cả các tín đồ Hindu giáo và Phật giáo, nơi còn lưu giữ nguyên vẹn những nghi lễ, tục lệ và nét văn hóa thiêng liêng  của người Ấn, nơi cổ xưa hơn cả lịch sử, truyền thống, và huyền thoại.

Đến VANARASI đoàn ăn tối nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi hoặc tự do khám phá Bến DASHASHWAMEDH: Đây là bến nằm ở trung tâm và cũng là bến nhộn nhịp nhất. Vào lúc 7 giờ tối  hàng ngày, nơi đây tổ chức lễ Ganga arti bày tỏ sự tôn kính và biết ơn đối với nữ thần Sông Hằng. Hàng ngàn người đứng chen nhau ở bến sông thành kính cầu nguyện, nghi thức được kết thúc bằng những hoa đăng thắp  nến, gắn hoa thả kín một khúc sông Hằng. Nghỉ đêm tại thành phố Varanasi.

 

Đến Vanarasi đoàn đi chiêm bái Sarnath (Vườn Lộc Uyển) - Một trong bốn thánh tích gắn liền với cuộc đời của Đức Phật Thích Ca (tứ động tâm). Vườn Lộc Uyển (Sarnath) Nơi đầu tiên Đức Phật giảng pháp ( Truyền đạo) - thuyết giảng về quy luật tự nhiên của vạn vật cho năm vị tu sĩ khổ hạnh trong lần thuyết pháp đầu tiên trong vườn Sarnath. Ở đây, Phật giáo bắt đầu được truyền bá rộng rãi. Đây cũng là trung tâm lớn của các hoạt động Phật giáo trong suốt hơn 1.500 năm sau ngày Phật nhập diệt và là nơi Đức Phật trải qua mùa an cư kiết hạ đầu tiên. Đoàn tham quan các di tích

  • Tháp Dhamek (Dhamek Stupa) uy nghi với chiều cao 39 m và rộng 28 m.
  • Tháp Dharmarajika (Dharmarajika Stupa) được xây dựng bởi vua Ashoka - hiện nay chỉ còn lại phần nền móng.
  • Tháp Chaukhandi (Chaukhandi Stupa) là nơi Đức Phật gặp gỡ các đệ tử của mình lần đầu tiên.
  • Tàn tích của tịnh xá Mulagandha Kuti (cũ) (Mulagandha Kuti Vihar), nơi Đức Phật an cư trong mùa mưa.
  • Tịnh xá Mulagandha Kuti (mới) được xây dựng vào năm 1930 với những bức tranh tường tuyệt đẹp. Phía sau tịnh xá là vườn nai.
  • Trụ đá của vua Ashoka (Ashoka Pillar) và Bảo tàng Khảo cổ Sarnath (Sarnath Archeological Museum). Ngoài ra, còn có một cây bồ đề được chiết nhánh từ cây ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya).

 

Đoàn về khách sạn nhận phòng, ăn tối tại khách sạn nghi ngơi hoặc tự do khám phá Bến Dashashwamedh : Đây là bến nằm ở trung tâm và cũng là bến nhộn nhịp nhất. Quý khách sẽ được chứng kiến một thế giới nơi tất cả những điều trái ngược cùng tụ hội: vui nhộn, màu sắc, quay cuồng, hỗn độn, thánh thần, trần tục... Vào lúc 7 giờ tối hàng ngày, nơi đây tổ chức lễ Ganga aarti bày tỏ sự tôn kính và biết ơn đối với nữ thần Sông Hằng. Năm đàn thờ được lập nên với năm vị đạo sĩ trẻ làm đại diện, nghi lễ bắt đầu bằng một lời kinh ngân vang, sau đó, năm vị đạo sĩ dùng tù và hối thúc thành từng hồi dài. Hàng ngàn người đứng chen nhau ở bến sông thành kính cầu nguyện, nghi thức được kết thúc bằng những hoa đăng thắp nến, gắn hoa thả kín một khúc sông Hằng. Nghỉ đêm tại thành phố Varanasi.

NGÀY 4 VARANASI - LUMBINI (NƠI ĐỨC PHẬT SINH RA) - NEPAL (Ăn 3 bữa)

Sáng sớm - đoàn cùng HDV lên thuyền đón bình minh trên sông Hằng & khám phá những điều rất đặc biệt - Trong tâm thức của tín đồ Hindu giáo, được đến VARANASI là một diễm phúc, khi chết được hỏa thiêu bên bờ sông Hằng ở thành phố này thực sự là một ân điển lớn lao.

***Lưu ý: Tuỳ tình hình thời tiết và mực nước sông dâng cao mà HDV sẽ sắp xếp cho đoàn trải nghiệm dạo thuyền.

Đoàn về khách sạn ăn sáng, xe và HDV đón đoàn đi SARNATH (VƯỜN LỘC UYỂN) - Một trong bốn thánh tích gắn liền với cuộc đời của Đức Phật Thích Ca (tứ động tâm). Vườn Lộc Uyển (Sarnath) Nơi đầu tiên Đức Phật giảng pháp (Truyền đạo) - thuyết giảng về quy luật tự nhiên của vạn vật cho năm vị tu sĩ khổ hạnh trong lần thuyết  pháp đầu tiên trong vườn Sarnath. Ở đây, Phật giáo bắt đầu được truyền bá rộng rãi. Đây cũng là trung tâm lớn của các hoạt động Phật giáo trong suốt hơn 1.500 năm sau ngày Phật nhập diệt và là nơi Đức Phật trải qua mùa  an cư kiết hạ đầu tiên.

Đoàn tham quan các di tích:

  • Tháp Dhamek (Dhamek Stupa) tháp uy nghi với chiều cao 34 m và đường kính khoảng 28 m. Dhamek là viết tắt của chữ Dhamma Mukha nghĩa là suy tưởng chánh pháp, được tuyên truyền là nơi đức Phật đã phó chúc cho Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật đời sau. Vào khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên, ngôi tháp này được vua A Dục xây dựng để đánh dấu vị trí xuất xứ của bài pháp đầu tiên, khởi nguồn cho bánh xe chánh pháp lăn chuyển..
  • Tháp Dharmarajika (Dharmarajika Stupa) Nằm giữa khuôn viên khu khai quật là một mô đất tròn, nền cao được tuyên truyền rằng trong ngôi tháp này có thờ xá lợi của Phật.
  • Tháp Chaukhandi (Chaukhandi Stupa) là nơi Đức Phật gặp gỡ các đệ tử của mình lần đầu tiên.
  • Trụ đá của vua Ashoka  (Ashoka Pillar) : Trụ đá vua A Dục được dựng lên để xác định nơi chuyển bánh xe pháp đầu tiên của Phật. A Dục Vương được xem là vị vua phật tử, đã có công rất lớn trong việc truyền bá chánh pháp trong nước cũng như ảnh hưởng đến các nước láng giềng xung quanh.   
  • Bảo tàng Khảo cổ Sarnath (Sarnath Archeological Museum): Nơi lưu giữ những pho tượng Phật cổ qua nhiều giai đoạn được khai quật từ vườn Lộc Uyển.  

Sau bữa trưa đoàn đi Lâm Tỳ Ni hay còn gọi là LUMBINI điểm đến ao ước của những vị hành giả và học giả Phật giáo (thuộc đất nước Nepal ). Vườn Lâm Tỳ Ni đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1997. Đến biên giới - đoàn làm thủ tục xuất cảnh Ấn Độ & nhập cảnh vào Nepal tại cửa khẩu quốc tế - đến Lumbini đoàn ăn tối tại nhà hàng và nghỉ đêm tại Lumbini.

NGÀY 5 LUMBINI - KUSHINAGAR ( CÂU THI NA) NƠI ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN ( Ăn 3 bữa)

Sáng sớm đoàn ăn sáng đi tham quan chiêm bái cảnh vườn chùa thanh tịnh, ghé thăm ĐỀN THỜ HOÀNG HẬU MAYADEVI nơi có chứng tích dấu chân của Đức Phật lúc mới chào đời, hồ nước thiêng Mayadevi nơi hoàng hậu Mayadevi cử hành lễ nhúng nước sau khi sinh cho Đức Phật, cây Bồ Đề linh thiêng, trụ đá Vua A Dục, bảo tàng Lâm Tỳ Ni...Sau đó, đoàn tham dự lễ chúc phúc và làm thủ tục cầu nguyện tại một trong những ngôi chùa cổ nhất tại Nepal theo nghi lễ Pali.

HỒ NƯỚC VÀ CỘI BỒ ĐỀ: Cách trụ đá khoảng 50 m có một cái hồ nước vuông, cạnh hồ nước có một cây Bồ Đề; được tuyên truyền rằng - tại đây hoàng hậu MAYADEVI đã tắm trong hồ nước này sau khi lâm bồn. Ngồi thiền dưới cây Bồ Đề râm mát bên bờ hồ, du khách sẽ cảm thấy rất dễ chịu và nên thơ, mọi ưu phiền dường như tan biến.

Đoàn về khách sạn trả phòng, ăn trưa khởi hành đến cửa khẩu xuất cảnh Nepal - nhập cảnh Ấn Độ - Đoàn khởi hành đến KUSHINAGAR (CÂU THI NA) nơi Đức Phật nhâp niết bàn. Đến KUSHINAGAR đoàn ăn tối tại nhà hàng và nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi.

NGÀY 6 KUSHINAGAR - GORAKHPUR - NEW DELHI (Ăn 2 bữa)

Sáng đoàn ăn sáng tại khách sạn và tham quan:

THÁP NIẾT BÀN (Mahaparinirvana Stupa): Tháp Niết Bàn có kiến trúc mái vòm hình lăng trụ, được chính phủ Ấn Độ xây dựng lại vào năm 1956 để kỷ niệm làn thứ 2500 đức Phật Niết Bàn. Bên trong tháp có tượng đức Phật nhập Niết Bàn bằng đá đen nhưng đã được thiếp vàng, dài khoảng 7m được tôn trí trên bệ khoảng 5 tấc ngay giữa tháp. Mặt tượng hướng về phía Tây, đầu gối lên tay phải, tay trái để xuôi theo thân về hướng Nam trong tư thế nằm nghiêng. Đặc biệt nhất là dường như ít ai kiềm chế được cảm xúc khi ngắm nhìn bức tượng này.  

THÁP XÁ LỢI: Tháp xá lợi cách tháp Niết Bàn khoảng 3m. Tháp thờ Xá Lợi Phật là do dòng họ Malla kiến tạo và tôn thờ Xá Lợi Phật. Tháp có chiều cao khoảng 45m, trên đỉnh tròn của tháp là một hình trụ cao khoảng 0,5m. Năm 1927 tháp được khôi phục hoàn toàn nhờ sự cúng dường của hai Phật tử người Miến Điện là U Po Kyu và U Po Hlaing. Xung quanh tháp chính, có nhiều tháp nhỏ và các nền gạch cũ nằm đan xen chính là nền của các tu viện thời xưa.

THÁP TRÀ TỲ (Angrachatya): Cách tháp Niết Bàn khoảng 2km về phía Đông là tháp Trà Tỳ - Nơi đánh dấu vị trí hoả thiêu nhục thân của Phật. Căn cứ vào lịch sử Phật giáo, nhục thân của Phật phải hoãn lại bảy ngày sau mới hoả thiêu, vì còn phải đợi ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahakassapa) cùng với các Tỳ kheo đang trên đường đến Câu Thi Na tham dự tang lễ của Phật.

Đoàn về lại khách sạn nghỉ ngơi, đến giờ làm thủ tục trả phòng, ăn trưa và đi ra sân bay GORAKHPUR - làm thủ tục chuyến bay nội địa. Đoàn về đến THỦ ĐÔ DELHI, làm thủ tục nối chuyến bay quốc tế về lại TP.HCM.

NGÀY 7 NGHỈ ĐÊM TRÊN MÁY BAY - HCM

Đoàn đáp chuyến bay lúc 00H05 - VỀ HCM LÚC 6H30 SÁNG - làm thủ tục nhập cảnh, nhận hành lý - kết thúc chương trình, chia tay hẹn ngày gặp lại quý khách trong những chuyến đi tiếp theo.

XIN LƯU Ý: Quý khách vui lòng xem kỹ chương trình, giá tour, các khoản bao gồm và không bao gồm được liệt kê chi tiết trong chương trình trước khi quyết định đăng ký. Chương trình có thể thay đổi thứ tự cho phù hợp với tình hình thực tế của đoàn (thời tiết, thiên tai, dịch bệnh, lễ hội tại các điểm đến , …vv…) nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ các điểm tham quan như chương trình đính kèm.


Xin lưu ý : Sau khi xem xét thêm không thể xóa hoặc cập nhật

Đặt Tour / Booking Tour

Tour liên quan

Tin tức

Bắc Ấn Kashmir: Thiên đường hạ giới giữa dãy Himalaya

TOP 10 THÀNH PHỐ CÓ CẢNH ĐÊM KHÔNG THỂ BỎ QUA

DUBAI – ĐẤT NƯỚC CỦA NHỮNG KỈ LỤC THẾ GIỚI

ẨM THỰC DUBAI – MỘT LẦN THỬ, VẠN LẦN MÊ

LỄ HỘI ÁNH SÁNG DIWALI - LUNG LINH MIỀN ĐẤT ẤN

THUNG LŨNG KASHMIR - THIÊN ĐƯỜNG TRÊN MẶT ĐẤT ẤN ĐỘ

BHUTAN BÌNH YÊN TRONG TỪNG KHOẢNH KHẮC

Chiêm ngưỡng vườn hoa tulip lớn nhất châu Á đẹp ngất ngây

Kashmir mùa đông có gì?

Khám phá Himachal Pradesh - Vùng đất tuyết trắng giữa Himalaya hùng vĩ

PAHALGAM – MẢNG MÀU KHÁC BIỆT Ở ẤN ĐỘ

LADAKH - TIỂU TÂY TẠNG TRÊN ĐẤT ẤN

Khám phá Vườn Quốc Gia Ranthambore - Thiên đường của động vật hoang dã

ĐỘC ĐÁO CUNG ĐIỆN SHEY Ở LADAKH

Srinagar - Thủ phủ mùa hè của Ấn Độ

Khám phá văn hóa độc đáo của Bhutan qua các lễ hội truyền thống

Khám phá sự linh thiêng của Đền Vàng Harmandir Sahib ở Ấn Độ

Lễ Hạ Cờ Beating Retreat Ceremony: Trải Nghiệm Độc Đáo Tại Biên Giới Ấn Độ - Pakistan

Cẩm nang du lịch Ấn Độ: Khám phá đất nước kỳ diệu

Rajasthan - Viên ngọc quý của Ấn Độ

Giới thiệu về Viettourist

GIỚI THIỆU VỀ VIETTOURIST

Viettourist - Thương hiệu du lịch cao cấp - Giá rẻ tại Việt Nam. Tiếp nối thành công, từ tháng 06/2012 trung tâm du lịch Viettourist được chuyển đổi thành Cty CP DV TM Du Lịch Viettourist...

Hỗ trợ trực tuyến 24/7

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN 24/7

1900 1868

viettourist@icloud.com

Tại sao chọn Viettourist?

TẠI SAO CHỌN VIETTOURIST?

Giá luôn tốt 
Điểm đến đa dạng
Thanh toán linh hoạt
Chất lượng dịch vụ vượt trội

call facebook zalo