93 Lê Quốc Hưng, P.12, Q.4, TP.HCM
19001868 - 0909886688

Tour du lịch Tết Ấn Độ - Hành hương chiêm bái Tứ Động Tâm - Lumbini - Bodh Gaya - Varanasi - Kushinagar 6N6Đ Bay thẳng toàn chặn

Tour Tết Nguyên Đán Ấn Độ Tứ Đại Động Tâm - Về miền đất Phật | NƠI PHẬT SINH RA ( Lumbini - Lâm Tỳ Ni) - NƠI PHẬT GIÁC NGỘ ( Bodh Gaya - Bồ Đề Đạo Tràng) - NƠI PHẬT TRUYỀN ĐẠO ( Varanasi/ Sarnath - Vườn Lộc Uyển ) - NƠI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN (Kushinagar - Câu Thi Na) | 6ngày 6đêm Bay thẳng toàn chặng, khởi hành từ TPHCM & Hà Nội, khách sạn 4 - 5 sao. Tour trọn gói đã bao gồm vé máy bay khứ hồi khởi hành trong các dịp lễ Giỗ tổ Hùng Vương - Tour lễ 30/4 - 1/5 - Du lịch hè tháng 6.7.8 + Du lịch mùa Noel , Năm mới, Tết Nguyên Đán... Liên hệ hotline: 19001868 - 0909886688

 

  • Thời gian: 6 ngày 6 đêm
  • Phương tiện: BAY THẲNG TOÀN CHẶNG
  • Nơi khởi hành: Hồ Chí Minh
39,888,000 đ 28,888,000 đ
Đặt tour Tải về
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐẠO PHẬT GIÁO

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người từng sống trên trái đất và sáng lập ra Phật Giáo. Tên gọi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Thích Ca, Phật Tổ Như Lai hay nhiều tên gọi khác như Phật Tổ, Phật Như Lai, Tất Đạt Đa Cồ Đàm, Đức Thế Tôn... là chung một người.

Trưởng lão tỳ-kheo Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) đã kết luận:
Ngài cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Đạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Đại Giác, có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh. Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Thế Tôn, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Thế Tôn và noi theo gương sáng của Thế Tôn mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Đạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.

============================
LUMBINI Phật Tổ Như Lai sinh ra tại Lumbini, Nepal vào ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 TCN, Cha ông là Vua Suddhodana của tiểu quốc Thích-ca (Shakya) nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay. Mẹ ông là hoàng hậu Maya ( mất sau khi sinh Ngài được 7 ngày). Tương truyền khi mới sinh ra Thái Tử đã biết đi. Nhận thấy những điều kỳ lạ này, đức vua đã tìm những đạo sư giỏi nhất trong cả nước để cầu phúc và xem tướng cho Ngài. Một hôm A Tư Đà - một vị đạo sư đến từ vùng Hy Mã Lạp Sơn sau khi gặp thái tử đạo sư thưa với Vua rằng: “Thái tử có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh đẳng, chánh giác.

Năm 13 tuổi thái tử đã tinh thông học vấn, năm 16 tuổi nên duyên cùng công chúa Yasodhara. Cuộc sống bình yên cứ thế trôi qua, cho đến một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, Ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là: 1 người già yếu, 1 người bệnh tật, 1 xác chết, và 1 vị tu sĩ. Ngài nhận ra con người ta được sinh ra, lớn lên rồi cũng sẽ già đi và chết, dù là ai thì cũng sẽ không thoát khỏi cảnh “ sinh lão bệnh tử”. Ngài trân quý hình ảnh sự ra đi thanh thản của các vị tu sĩ nên đã quyết tâm bước vào con đường tu hành. Ngài bỏ lại sau cuộc sống vinh hoa , vợ, con ... đi theo con đường tu hành và Lumbini là nơi Đức Phật đã sống đến năm 29 tuổi.
============================
BODH GAYA Trong đêm tối, rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 TCN, lịch sử gọi đây là cuộc cuộc ra đi vĩ đại - Xuất gia. Khi xuất gia Ngài bắt đầu cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau, quyết tâm tìm cách diệt khổ theo cách tu của truyền thống Ấn Độ lúc bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Ngài nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, nên Ngài quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em ngài Kiều Trần Như đồng hành cùng Ngài. Sau 5 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, nên Ngài bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi.

Ngài đi đến Giác Thành, đến bờ sông Nairanjana (Ni-liên-thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé thấy Ngài đang ngồi thiền định liền tự tay vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên, Ngài ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh. Đến ngày thứ 49, Ngài ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách cây Bồ-đề khoảng 150 m về hướng đông) thì có hai chị em nàng Tu-Xà-Đề (Sujata) thấy Ngài đang tĩnh tọa, hào quang của Ngài sáng tỏa làm cho Sujata tưởng rằng vị Thần cây đang hiện thân, hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Ngài thấy cơ thể khỏe mạnh lạ thường & xuống sông Ni-liên-thiền tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.

Ngài quyết định ở lại Bồ-đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) và phát nguyện rằng: sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc đắc đạo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Ngài tiếp tục ngồi thiền tư thế ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Ni-liên-thiền. Đêm hôm đó, Ngài bắt đầu thực hành các pháp thiền định.

Canh một đêm đó, Ngài chứng ngộ Túc Mạng Minh, biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)

Đến canh ba, Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn Minh, biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...). Ngài biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó nhìn thấu được luật Nhân quả và Luân hồi; tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Đến canh năm, Ngài chứng ngộ Lậu Tận Minh: Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên Ngài nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ngài đã tìm ra Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).

Theo lịch sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN. Ở tuổi 35, Ngài đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ thời điểm đó, Ngài biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa.

Ngài lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra "con đường giác ngộ", vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Ngài nghĩ rằng: "Giáo pháp mà Ta đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu".

Nếu Ngài truyền dạy giáo pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được giáo pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị". Nên Ngài tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ đề một thời gian là 7 tuần lễ. Với lòng thương yêu chúng sinh, Ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni ( Shakyamuni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".
====================================
SARNATH VƯỜN LỘC UYỂN 
Sau khi giác ngộ, Ngài quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès (Ba-la-nại) và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Ngài thành đạo.

Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, Đức Phật đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Benares hay còn gọi là Varanasi, ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân".

Trong 45 năm tiếp đó, Đức Phật đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Ông hay lưu trú tại Vương-xá( sāvatthī) và Phệ-xá-li (vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định. Thông qua những lời dạy của mình về chân lý, Ngài đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ, cận sự nam), ưu-bà-di (nữ cư sĩ, cận sự nữ).

Trong hàng đệ tử tại gia của Ngài có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã chở nhiều xe vàng và lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc.

Thập đại đệ tử của Đức Phật, trong đó có :
A-nan-đà (thị giả của Phật), Xá-lợi-phất (trí huệ đệ nhất), Mục-kiền-liên (thần thông đệ nhất), Ma-ha-ca-diếp (hạnh đầu đà đệ nhất), A-na-luật (thiên nhãn đệ nhất) và Phú-lâu-na. Trong đó, A-nan-đà trở thành thị giả thân cận của Đức Phật.

Tôn giả A-nan-đà nổi tiếng với trí nhớ phi thường, đã ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Chính tôn giả là người đã đọc tụng lại tạng Kinh trong lần Kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất để các chư tăng ghi nhớ, do đó kinh Phật được bảo tồn tới ngày nay chính là bắt nguồn từ công lao của tôn giả (các đoạn kinh Phật được lưu truyền tới nay thường bắt đầu bằng cụm từ "Tôi nghe như vậy" hay âm Hán việt là "Như thị ngã văn", "tôi" ở đây chính là tôn giả A-nan-đà). Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật

Cũng trong thời gian này, đoàn Tỳ-kheo-ni (các vị nữ tu) được thành lập do kế mẫu của Ngài là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng. Ban đầu, Phật Thích Ca không đồng ý nhận người nữ vào tăng đoàn, không phải vì ghét phụ nữ hoặc cho rằng nữ giới không thể tu đắc đạo, mà vì ông biết rằng điều này dễ làm phát sinh các vi phạm về sắc giới trong tăng đoàn. Phật tiên đoán rằng sự có mặt của nữ giới sẽ làm Tăng-già khó tu hành và dự đoán là thời mạt pháp vì lý do đó mà sẽ tới sớm hơn. Nếu tiếp nhận nữ giới, thời kỳ tượng pháp (thời kỳ giáo pháp của Phật được chư tăng duy trì vững vàng, chưa bị biến hoại) thay vì kéo dài 1000 năm, sẽ chỉ còn 500 năm mà thôi. Mặc dù vậy, nhờ sự cầu xin của A-nan-đà (Ananda) mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn, nhưng ông cũng chế định ra 8 giới luật nghiêm khắc với các Tỉ-khâu-ni để ngăn chặn việc phạm sắc giới trong tăng đoàn.

Cuộc đời Đức Phật cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó có Đề-bà-đạt-đa, là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già nên rắp tâm tìm cách giết hại Đức Phật nhiều lần nhưng không thành. Cho đến cuối đời, Đề-bà-đạt-đa vì phạm 2 trong 5 đại tôi là 'Làm thân Phật chảy máu' và 'Phá hòa hợp Tăng' cho nên Địa Cầu không thể dung chứa ông, mặt đất đã nứt ra và hút ông xuống địa ngục.

Tham quan #Sarnath, #Varanasi, Ấn Độ - nơi đầu tiên Đức Phật giảng pháp : Còn được biết đến với cái tên vườn Lộc Uyển, Sarnath được xem là thánh địa của Phật giáo. Nơi đầu tiên Phật Thích Ca đã thuyết giảng về quy luật tự nhiên của vạn vật cho năm vị tu sĩ khổ hạnh trong lần thuyết pháp đầu tiên trong vườn Sarnath. Ở đây, Phật giáo bắt đầu được truyền bá rộng rãi. Đây cũng là trung tâm lớn của các hoạt động Phật giáo trong suốt hơn 1.500 năm sau ngày Phật nhập diệt và là nơi Đức Phật trải qua mùa an cư kiết hạ đầu tiên.

Đến Sarnath tham quan sông Hằng, được xem là dòng sữa mẹ linh thiêng, đi dọc bờ sông Hằng bằng thuyền và ngắm cảnh mặt trời mọc, xem bãi hỏa thiêu và nghi thức tắm gội. Đây là một trong những điểm hành hương không thể thiếu khi đến Varanasi.
============================
KUSINAGARA NƠI PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Trong kinh điển Pali, Phật Thích Ca tại thế tám mươi (80) năm. Theo kinh Đại bát-niết-bàn, vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na (Kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên, địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Uttar Pradesh - Ấn Độ ngày nay.

Vào một ngày trước, sức khoẻ của Đức Phật đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà người thợ rèn Thuần-Đà, một số kinh sách ghi rằng do nguyên liệu nấu ăn có lẫn nấm độc. Tuy nhiên sau đó Phật đã nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách Thuần-đà bởi ông ta đã có thiện ý tối thượng, còn việc Phật trở bệnh nặng là quả báo đến lúc phải trả, điều này đã được Phật dự đoán từ 3 tháng trước rồi.

Trước khi qua đời, Phật tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, các vị đã im lặng vì thương Đức Phật đang rất yếu. Lời dạy cuối cùng của Phật : "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học !"

Theo các Phật tử, Đức Phật đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Mặc dù cuộc đời của Đức Phật có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận Ngài là một nhân vật lịch sử có thật và là người đã thành lập ra Phật giáo.


Kushinagar, ngôi làng của Ấn Độ. Đây là nơi Đức Phật xưa kia nhập niết bàn. Trên đường đi tham quan những địa điểm như đền Mahaparinirvana, nơi đặt bức tượng Đức Phật dài 6 mét nằm ở tư thế nhập niết bàn và tháp Ramabhar, nơi làm lễ hỏa táng Đức Phật. Đây cũng chính là nơi cao tăng Trần Huyền Trang viếng thăm.

============================
Tour ẤN ĐỘ tham quan bốn thánh tích linh thiêng về đất Phật mà mọi du khách đều ao ước được chiêm bái một lần trong đời. Bốn thánh tích này bao gồm #Lumbini (Lâm Tì Ni), #Bodh_Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), #Sarnath (vườn Lộc Uyển) và #Kushinagar (Câu Thi Na) với những sắc màu huyền bí trải dài qua 02 Quốc gia Ấn Độ & Nepal.
================
Tour tham quan bốn thánh tích linh thiêng về đất Phật khởi hành định kỳ hàng tuần, bay thẳng từ HCM & HÀ NỘI.
LIÊN HỆ : 19001868 - 0909886688
HOTLINE : 0908886688

NGÀY 1 HCM - PATNA (HOA THỊ THÀNH) - VASHAILI (TỲ XÁ LY)- KUSHINAGAR (CÂU THI NA) (Ăn trên máy bay, Ăn tối)

Hành trình về miền đất Phật chính thức bắt đầu. Hướng dẫn viên Viettourist sẽ hân hoan đón đoàn tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, hỗ trợ Quý khách làm thủ tục cho chuyến bay đi Kolkata. (Quý khách vui lòng có mặt ở sân bay trước 3 tiếng để làm thủ tục, tức khoảng 01:00 sáng). Chuyến bay chặng 1: HCM – Kolkata Giờ bay: 04h00 – 05h55. 

 

Đến Kolkata, Quý khách sẽ làm thủ tục nhập cảnh Ấn Độ. Sau đó, đoàn sẽ có thời gian nghỉ ngơi tại sân bay, chuẩn bị làm thủ tục cho chuyến bay nội địa đi Patna. Chuyến bay chặng 2: Kolkata – Patna Giờ bay: 10h10 – 11h20. Đến sân bay Patna, Hướng dẫn viên (địa phương) sẽ nồng nhiệt đón Quý khách. Xe đưa đoàn về Vaishali dùng bữa trưa. Sau đó, đoàn bắt đầu hành trình chiêm bái:

 

TỲ XÁ LY (VAISHALI): Những cuộc khai quật trong khu vực đã đưa ra ánh sáng một quá khứ lịch sử ấn tượng. Sử thi Ramayana kể về câu chuyện của vị vua anh hùng Vishal cai trị nơi đây. Các nhà sử học khẳng định rằng một trong những nước cộng hòa dân chủ đầu tiên trên thế giới (với một hội đồng đại diện được bầu ra) đã phát triển mạnh mẽ ở đây vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, vào thời của người Vajjis và người Lichchavis.

 

Đức Phật thường xuyên đến thăm Vaishali. Đây cũng chính là nơi dừng chân cuối cùng của Đức Phật để thuyết pháp và chúc phúc cho toàn dân thành Vaishali, khi Ngài biết thời điểm nhập diệt sắp đến. Thành phố này cũng là nơi nhận được một phần tám xá lợi của Đức Phật ngay sau lễ trà tỳ của Ngài.

 

BẢO THÁP THỜ XÁ LỢI PHẬT CỦA DÒNG HỌ LICCHAVI: Cách trụ đá khoảng 3km về hướng Tây, Quý khách sẽ tham quan một nền tháp lớn thuộc dòng họ Licchavi, được xây dựng để tôn thờ Xá Lợi Phật. Người ta cho rằng, vua A Dục đã khai quật tháp này, đem xá lợi phân chia thành nhiều phần nhỏ và xây dựng các tháp thờ trên khắp xứ Ấn Độ. Hiện nay, nơi này chỉ còn lại nền gạch cũ chạy vòng tròn, nằm sâu trong lòng đất khoảng 4m. Rời Vaishali, đoàn khởi hành đi Kushinagar (Câu Thi Na).

Buổi tối: Đến nơi, Quý khách dùng bữa tối, sau đó nhận phòng và nghỉ đêm tại KUSHINAGAR (CÂU THI NA).

NGÀY 2 KUSHINAGAR - LUMBINI ( LÂM TỲ NI - NƠI ĐỨC PHẬT SINH RA ) (3 bữa)

Buổi sáng: Sau bữa sáng, Quý khách sẽ bắt đầu hành trình đi chiêm bái và đảnh lễ tại các thánh tích: 

CHÙA ĐẠI NIẾT BÀN (MAHAPARINIRVANA TEMPLE): Chùa Đại Niết Bàn có kiến trúc mái vòm hình lăng trụ, được chính phủ Ấn Độ xây dựng lại vào năm 1956 để kỷ niệm lần thứ 2500 đức Phật nhập Niết Bàn. Bên trong tháp là tượng đức Phật nhập Niết Bàn (nguyên bản bằng đá đen nhưng đã được thiếp vàng), dài khoảng 7m, được tôn trí trên bệ khoảng 5 tấc ngay giữa tháp. Tượng có mặt hướng về phía Tây, đầu gối lên tay phải, tay trái để xuôi theo thân về hướng Nam trong tư thế nằm nghiêng. Đặc biệt nhất là dường như ít ai kiềm chế được cảm xúc khi ngắm nhìn bức tượng này.

 

THÁP XÁ LỢI (NIRVANA CHAITYA/ STUPA): Tháp xá lợi nằm cách tháp Niết Bàn khoảng 3m. Đây là tháp thờ Xá Lợi Phật do dòng họ Malla kiến tạo và tôn thờ Xá Lợi Phật. Tháp có chiều cao khoảng 45m, trên đỉnh tròn của tháp là một hình trụ cao khoảng 0,5m. (Năm 1927, tháp được khôi phục hoàn toàn nhờ sự cúng dường của hai Phật tử người Miến Điện là U Po Kyu và U Po Hlaing). Xung quanh tháp chính, Quý khách sẽ thấy có nhiều tháp nhỏ và các nền gạch cũ nằm đan xen, đây chính là nền của các tu viện thời xưa.

 

THÁP TRÀ TỲ (ANGRACHATYA): Cách tháp Niết Bàn khoảng 2km về phía Đông là Tháp Trà Tỳ – đây là nơi đánh dấu vị trí hoả thiêu nhục thân của Đức Phật. Căn cứ vào lịch sử Phật giáo, nhục thân của Đức Phật phải hoãn lại bảy ngày sau mới hoả thiêu, vì còn phải đợi ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahakassapa) cùng với các Tỳ kheo đang trên đường đến Câu Thi Na để tham dự tang lễ của Đức Phật.

 

Sau khi hoàn tất chương trình chiêm bái, đoàn về khách sạn dùng bữa trưa, trả phòng &  Quý khách khởi hành đi LUMBINI (LÂM TỲ NI).

Đến nơi, Quý khách dùng bữa tối, sau đó nhận phòng và nghỉ đêm tại LUMBINI.

NGÀY 3 LUMBINI- VARANASI (BÀ LA NẠI) (3 bữa)

Buổi sáng: Sau bữa sáng sớm, Quý khách sẽ bắt đầu hành trình chiêm bái và đảnh lễ tại:

VƯỜN LÂM TỲ NI (LUMBINI GARDEN) - Nơi Đức Phật đản sanh. Đoàn sẽ chiêm bái tại 02 vị trí quan trọng nhất trong vườn là Nơi Thái Tử Sĩ Đạt Ta đản sanh và trụ đá Vua A Dục.

1. ĐỀN THỜ HOÀNG HẬU MAYA (MAYADEVI TEMPLE):

  • Phía bên trong, ngay phía đầu đền thờ chính là vị trí của dấu khắc trên đá, nơi chính xác Thái tử Đản sanh.

  • Và phía trên là vị trí hiện đặt bức tranh hóa thạch sự kiện Hoàng hậu giơ tay hái hoa vô ưu Đản sanh Thái tử.

  • Nền gạch (Quý khách thấy) là di tích đền thờ cổ xưa đã được khai quật lại.

2. AO THIÊNG PUSKARNI (SACRED POND):

  • Ao thiêng Puskarni có hình chữ nhật, được xem là nơi Hoàng hậu Maya đã tắm gội trước khi sinh.

3. TRỤ ĐÁ VUA A DỤC (ASHOKA PILLAR):

  • Trụ đá này do Vua A Dục xây dựng vào khoảng năm 249 trước Công Nguyên, với mục đích đánh dấu nơi Đức Phật đản sinh.

  • Trụ đá này có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là bằng chứng xác thực rằng Đức Phật đã ra đời tại Lâm Tỳ Ni.

Sau khi hoàn tất chương trình chiêm bái, đoàn sẽ dùng bữa trưa.

 

Buổi chiều: Sau bữa trưa, Quý khách khởi hành về VARANASI (BÀ LA NẠI).

 

Buổi tối: Đến nơi, Quý khách dùng bữa tối và nghỉ ngơi tại VARANASI (BÀ LA NẠI).

NGÀY4 VARANASI (BÀ LA NẠI)- BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG) (3 bữa)

Buổi sáng: Vào lúc sáng sớm, Quý khách sẽ có một trải nghiệm tâm linh đặc biệt: đi thuyền ngắm bình minh trên sông Hằng.

Khi mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời, thành phố cổ Varanasi – nơi hợp lưu của sông Hằng, sông Yamuna và sông Saraswati huyền thoại – bừng lên sức sống với sắc màu thanh bình của bình minh.

Trên những bậc đá (được gọi là ghats) dẫn đến dòng sông Hằng linh thiêng, những người hành hương Hindu tụ tập tắm rửa, một số người ngồi thiền. Trong khi đó, các nghi thức hỏa táng và rải tro cốt xuống sông Hằng (giúp linh hồn thoát khỏi chu kỳ luân hồi và đạt được sự giải thoát vĩnh cửu) vẫn diễn ra từng giờ, tạo nên một bầu không khí lạ lẫm tràn đầy sức sống tâm linh.

Sau trải nghiệm đáng nhớ này, đoàn trở về dùng bữa sáng.

Sau bữa sáng, Quý khách sẽ tiếp tục hành trình tham quan:

VƯỜN LỘC UYỂN (SANARTH): Đây là nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên sau khi Ngài Thành Đạo, bài "TỨ DIỆU ĐẾ" cho 05 anh em nhà Kiều Trần Như. Tại đây, đoàn sẽ chiêm bái:

1. THÁP CHUYỂN PHÁP LUÂN (DHAMEKH STUPA):

  • Một bảo tháp uy nghi với chiều cao 39 m và rộng 28 m, nằm đồ sộ trong khuôn viên vườn Lộc Uyển.

  • Bảo tháp có nguồn gốc từ thời tiền Phật giáo, trong đó các nhà tu khổ hạnh được chôn cất trong tư thế ngồi (gọi là chaitya).

  • Ý nghĩa của địa điểm linh thiêng này là nơi đánh dấu Đức Phật đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên cho năm đệ tử của Ngài sau khi Ngài đạt được giác ngộ.

2. TRỤ ĐÁ CỦA VUA A DỤC (ASHOKA PILLAR):

  • Trụ đá này được vua A Dục dựng lên để xác định nơi chuyển bánh xe pháp đầu tiên của Phật.

  • A Dục Vương được xem là vị Vua Phật tử, đã có công rất lớn trong việc truyền bá chánh pháp trong nước cũng như ảnh hưởng đến các nước láng giềng xung quanh.

3. THÁP HẠNH NGỘ (CHAUKHANDI STUPA):

  • Tháp được phát triển từ các ngôi mộ chôn cất và phục vụ như một ngôi đền thờ xá lợi của Đức Phật.

  • Địa điểm thiêng liêng này cũng là nơi Đức Phật gặp lại năm anh em Trần Kiều Như sau khi Ngài đạt được giác ngộ.

4. BẢO TÀNG SANARTH:

  • Đây là nơi lưu giữ những pho tượng Phật cổ qua nhiều giai đoạn, được khai quật từ vườn Lộc Uyển. Quý khách sẽ được chiêm ngưỡng bảo vật và tìm hiểu về lịch sử của Ấn Độ và Phật Giáo.

Buổi chiều: Sau bữa trưa, Quý khách sẽ di chuyển đến BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG).

Buổi tối: Đến nơi, Quý khách dùng bữa tối và nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi tại BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG).

NGÀY 5 BODHGAYA (BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG)-NÚI LINH THỨU-NALANDA-PATNA (3 bữa)

Sáng sớm: Quý khách sẽ đến chiêm bái tại các thánh tích thiêng liêng:

1. THÁP ĐẠI GIÁC (MAHABODHI TEMPLE):

  • Đây là một trong Tứ Thánh Tích quan trọng của Phật Giáo, là nơi đánh dấu sự giác ngộ của Đức Phật Thích Ca.

2. CỘI BỒ ĐỀ (BODHI TREE):

  • Đây chính là nơi Thái tử Tất Đạt Đa đã ngồi thiền 49 ngày để đạt được đại giác ngộ.

  • Trải qua hơn 2600 năm, cây Bồ Đề từng bị đốn hạ, rồi trồng lại nhiều lần; ngày nay, hậu duệ của Cội Bồ Đề vẫn phát triển mạnh mẽ và vẫn không thay đổi so với vị trí ban đầu.

3. ĐẠI TƯỢNG PHẬT (GREAT BUDDHA STATUE):

  • Bức tượng cao 25m, được khánh thành vào ngày 18/11/1989 dưới sự hiện diện của Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, người đã ban phước lành cho bức tượng vĩ đại này.

  • Bức tượng hiện là một biểu tượng của thánh địa Bodhgaya, bên cạnh tháp Đại Giác.

Sau khi chiêm bái, Quý khách trở về khách sạn dùng bữa sáng.

Sau đó, Quý khách làm thủ tục trả phòng và khởi hành đi Rajgir (Thành Vương Xá).

RAJGIR - THÀNH VƯƠNG XÁ: Đây là kinh đô của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), một kinh thành cổ xưa nhất Ấn Độ. Kinh thành này rất trù phú, nguy nga nhưng lại hiểm trở vì núi non bao quanh, do vua Tần Bà Sa La (Bimbīsara) trị vì vào thời đức Phật còn tại thế.

Tại đây, đoàn sẽ tham quan: LINH THỨU SƠN (GRIDHKUTA PEAK):

  • Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá.

  • Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong truyền thuyết Phật giáo như: kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã...

Buổi chiều: Sau bữa trưa, Quý khách tiếp tục tham quan Đại học cổ NALANDA.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỔ NALANDA:

  • Đây từng là trường đại học Phật giáo lớn nhất thế giới, được xây dựng vào thế kỷ thứ 5.

  • Nơi đây đã tàng trữ nhiều bộ Kinh, Luật, Luận quan trọng, và là nơi đã đào tạo nhiều bậc Thánh Tăng như: Ngài Long Thọ, Ngài Liên Hoa Sanh, Ngài Mã Minh, Ngài Huyền Trang…

  • Nalanda cũng là quê hương của TÔN GIẢ XÁ - LỢI - PHẤT VÀ MỤC - KIỀN - LIÊN.

  • Đây là một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, phát triển từ thế kỷ thứ 5 và rực rỡ từ triều vua Śakrāditya cho đến cuối thế kỷ 12 (1197).

  • Nalanda đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2016.

Sau khi tham quan, Quý khách sẽ di chuyển về lại PATNA (HOA THỊ THÀNH).

Buổi tối: Đến nơi, Quý khách nhận phòng, dùng bữa tối và nghỉ đêm tại PATNA (HOA THỊ THÀNH).

Ngày 6 PATNA - Kolkata - HCM (Ăn sáng, ăn tối)

Buổi sáng: Quý khách dùng bữa sáng và có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn tại khách sạn.

Đến giờ hẹn chung của đoàn, xe sẽ đưa Quý khách ra sân bay, làm thủ tục cho hành trình bay về lại Tp.HCM.

Chi tiết chuyến bay dự kiến:  Chặng 1: 12h00 – 12h50 (Thời gian quá cảnh tại sân bay)

Chặng 2: 21h45 – 03h00 (Chuyến bay hạ cánh vào rạng sáng ngày hôm sau) 

Khi Quý khách hạ cánh tại sân bay Tân Sơn Nhất, chuyến hành hương "Về miền Đất Phật" của chúng ta đã hoàn tất tốt đẹp. Viettourist xin gửi lời chào tạm biệt Quý khách và hẹn gặp lại trên những hành trình ý nghĩa tiếp theo.

 


Xin lưu ý : Sau khi xem xét thêm không thể xóa hoặc cập nhật

Đặt Tour / Booking Tour

Tour liên quan

Giới thiệu về Viettourist

GIỚI THIỆU VỀ VIETTOURIST

Viettourist - Thương hiệu du lịch cao cấp - Giá rẻ tại Việt Nam. Tiếp nối thành công, từ tháng 06/2012 trung tâm du lịch Viettourist được chuyển đổi thành Cty CP DV TM Du Lịch Viettourist...

Hỗ trợ trực tuyến 24/7

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN 24/7

1900 1868

viettourist@icloud.com

Tại sao chọn Viettourist?

TẠI SAO CHỌN VIETTOURIST?

Giá luôn tốt 
Điểm đến đa dạng
Thanh toán linh hoạt
Chất lượng dịch vụ vượt trội


call zalo